Lịch sử, ý nghĩa ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7

Đối với người Việt, ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7 mang một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hàng năm, khi đến ngày 27/7, cả nước ta lại dành thời gian để hướng về các nghĩa trang liệt sỹ, nơi mà chúng ta thành kính dâng hương và tri ân công lao to lớn của những anh hùng đã hy sinh vì nền độc lập của quê hương. Đây cũng là dịp để chính quyền, các tổ chức và cá nhân đến thăm hỏi các gia đình của liệt sỹ, những mẹ Việt Nam anh hùng. Ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7 là ngày biểu tượng thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” – một giá trị tuyệt vời của người Việt.

Lịch sử, nguồn gốc ngày 27/7

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Khi chính quyền cách mạng đang còn rất non trẻ, thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Chúng ta đã kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập tự do và chống lại sức tấn công của chúng. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều chiến sĩ của chúng ta đã bị thương, và có những người đã ngã xuống trên chiến trường. Nhiều gia đình phải mất cả chồng và các con trên mặt trận. Có nhiều người vợ trẻ chỉ được hưởng hạnh phúc vợ chồng chưa trọn một ngày, rồi lại góa bụa cả đời. Đau khổ và thiệt hại không chỉ dừng lại ở đây, mà còn cả nỗi buồn sâu sắc của những người còn sống mà mất đi những người thân yêu. Tuy nhiên, nhờ lòng biết ơn vô hạn đó, chúng ta đã nói với lòng mình rằng: “Hãy sống sao cho xứng đáng với những người đã hy sinh”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã dành tình thương yêu của mình để chăm sóc các gia đình liệt sỹ, anh chị em thương binh – bệnh binh một cách tận tâm và chu đáo. Trong những tháng và năm đầu của cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, hy sinh đáng kinh ngạc trên các chiến trường. Nỗi đau chiến tranh bao trùm lên toàn dân tộc, có nhiều người vợ trẻ mất chồng, nhiều đứa con mất đi cha, và nhiều gia đình tan vỡ. Để một phần nào đền đáp nỗi đau mất mát của những gia đình chiến sỹ và đồng bào, Chính quyền Việt Nam đã tiến hành thành lập một tổ chức, mang tên là Hội giúp binh sĩ tử nạn. Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên thành Hội giúp binh sĩ bị thương) ra đời tại Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số địa điểm khác. Ngày 19/12/1946, Hà Nội chính thức khởi động cuộc chiến tranh với Pháp, sau đó chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng khác. Số người bị thương và tử nạn tăng lên nhanh chóng do sự chênh lệch về trang bị vũ khí cũng như các chiến thuật chiến đấu. Đời sống của binh lính và đặc biệt là những chiến sĩ bị thương, đã gặp rất nhiều khó khăn và thiếu thốn do tình cảnh khó khăn của Chính phủ Việt Nam thời đó. Đáp ứng yêu cầu này, và cùng với việc kêu gọi giúp đỡ gia đình thương binh và gia đình liệt sỹ, vào năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày 16/8/1947 quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sỹ đối với cuộc chiến tranh của Việt Nam. Để chỉ đạo công tác thương binh liệt sỹ trên toàn quốc, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7/1947, Ban Vận động tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc cũng được thành lập. Cùng thời điểm này, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam và Nha Thông tin tuyên truyền cùng một số địa phương đã dự một cuộc họp do cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam tổ chức. Cuộc họp này nhằm thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc lựa chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sỹ và bảo vệ công tác thương binh liệt sỹ. Theo đề nghị của đại diện của cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, sau khi cân nhắc nhiều mặt, cuộc họp đã nhất trí đề nghị Trung ương chọn ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sỹ. Từ tháng 7/1955, Ngày thương binh được đổi thành Ngày thương binh liệt sỹ để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào và chiến sĩ cả nước cho cuộc chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc. Sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, theo chỉ thị 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày thương binh liệt sỹ” của cả nước. Đây là ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Các đại biểu nhất trí chọn ngày 27/7 hàng năm làm ngày Thương binh toàn quốc, là dịp để người dân tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh.

Ý nghĩa ngày 27/7

Ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7 mang ý nghĩa quan trọng đối với toàn dân Việt Nam. Ngày này là cách thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những chiến sỹ đã hy sinh vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày 27/7 là dịp để thể hiện tinh thần yêu nước, củng cố và tôn vinh niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Vào ngày 27/7, có nhiều hoạt động tri ân và tôn vinh các anh hùng liệt sỹ diễn ra trên khắp cả nước. Những hành động này mang ý nghĩa tôn vinh những người có công với cách mạng, khẳng định sự cống hiến và hy sinh vô giá của những chiến sỹ. Chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và những người có công là một vinh dự, là một trách nhiệm của các cấp, các ngành và tổ chức chính trị – xã hội, cũng như của chúng ta – thế hệ ngày hôm nay và cả mai sau.

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng những cống hiến và hy sinh vĩ đại của những người đồng bào, những chiến sỹ đối với Tổ quốc. Chúng ta không chỉ chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm và lòng biết ơn sâu sắc của tất cả các tầng lớp nhân dân, tất cả các thế hệ cách mạng đối với thương binh, liệt sỹ và những người có công với cách mạng, mà còn thông qua việc đề ra và thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và nhân dân có công với cách mạng. Các chính sách và hoạt động này đã và đang góp phần to lớn vào sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc, trở thành nguồn động lực vật chất và tinh thần giúp họ vượt qua khó khăn và thách thức, tự chủ cuộc sống. Chúng ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của tất cả các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và những người có công với cách mạng. Sự hi sinh và hy sinh của họ vì độc lập và tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân không có giá trị chỉ cho ngày hôm qua hay hôm nay, mà còn cho muôn đời của con cháu chúng ta. Công việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với cách mạng không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội, mà còn là một niềm vinh dự của chúng ta – thế hệ ngày hôm nay và những thế hệ mai sau. Làm tốt công việc này là thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đồng thời góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và làm cơ sở cho sự ổn định chính trị và xã hội, bảo đảm hướng tới xã hội chủ nghĩa.